BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
_____________________________________________
GIÁO TRÌNH GIÁO DỤC
QUỐC PHÕNG – AN NINH
DÙNG CHO SINH VIÊN CÁC TRƢỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG
TẬP MỘT
NHÀ XUẤT BẢN GIÁO DỤC
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
__________________________________________
Nguyễn Mạnh Hƣởng, Trần Đăng Thdich vu bao ve chuyen nghiep
h, Đào Huy Hiệp, Đỗ Xuân Tảo, Vũ Quang Tạo, Nguyễn Trọng Xuân, Lƣu Ngọc Khải, Nguyễn Từ Vƣợng, Hoàng Khắc Thông, Lê Đại Nghĩa, Lê Doãn Thuật, Nguyễn Hoàng Minh, Tạ Ngọc Vãng
Chịu trách nhiệm về nội dung
Vụ Giáo dục Quốc phòng – Bộ Giáo dục và Đào tạo
Biên tập nội dung
Phạm Vĩnh Thông, Lê Doãn Thuật
Bài 1
ĐỐI TƢỢNG, PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
MÔN HỌC GIÁO DỤC QUỐC PHÕNG – AN NINHI/ MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU
- Nắm vững đối tƣợng, phƣơng pháp, nội dung nghiên cứu môn học Giáo
dục quốc phòng – an ninh (GDQP-AN), góp phần bồi dƣỡng nhân cách, phẩm
chất và năng lực trung thành với lí tƣởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.- Sinh viên xác định trách nhiệm, thái độ đúng trong học tập môn học
GDQP-AN, tích cực tham gia xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân, an
ninh nhân dân ngay khi đang học tập, rèn luyện trong nhà trƣờng và ở mỗi vị trí
công tác tiếp theo.II – ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU
Đối tƣợng nghiên cứu của môn học bao gồm đƣờng lối quân sự của Đảng,
công tác quốc phòng, an ninh, quân sự và kĩ năng quân sự cần thiết.
1. Nghiên cứu về đƣờng lối quân sự của Đảng
Nghiên cứu những quan điểm cơ bản có tính chất lí luận của Đảng về
đƣờng lối quân sự, bao gồm: những vấn đề cơ bản của học thuyết Mác – Lê nin,
tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về chiến tranh, quân đội và bảo vệ Tổ quốc ; quan điểm
của Đảng về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ
quốc, xây dựng lực lƣợng vũ trang nhân dân, an ninh nhân dân ; về kết hợp phát
triển kinh tế – xã hội với tăng cƣờng củng cố quốc phòng, an ninh và một số nội
dung cơ bản về lịch sử nghệ thuật quân sự Việt Nam qua các thời kì.
Học thuyết Mác – Lê nin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về chiến tranh, quân đội
và bảo vệ Tổ quốc mang tính cách mạng và khoa học sâu sắc. Đó là cơ sở lí luận
để Đảng ta đề ra chủ trƣơng, đƣờng lối chiến lƣợc xây dựng nền quốc phòng
toàn dân, xây dựng lực lƣợng vũ trang nhân dân và tiến hành chiến tranh nhân
dân bảo vệ Tổ quốc. Nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay không
chỉ bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển, hải đảo mà còn phải bảo vệ
Đảng, bảo vệ chế độ, bảo vệ nền văn hóa của dân tộc. Các quan điểm của Đảng
về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lƣợng vũ trang nhân dân,
tiến hành chiến tranh nhân dân đều có tính kế thừa và phát triển những truyền
thống quân sự độc đáo của dân tộc ”cả nƣớc một lòng chung sức đánh giặc”,
”lấy ít địch nhiều”, ”lấy nhỏ chống lớn”. Đó cũng chính là đặc trƣng nghệ thuật
quân sự Việt Nam đã chiến thắng các kẻ thù hung hãn nhất. Nghiên cứu đƣờng
lối quân sự của Đảng góp phần hình thành niềm tin khoa học, rèn luyện phẩm
chất đạo đức cách mạng và lí tƣởng cho sinh viên.
2. Nghiên cứu về công tác quốc phòng, an ninh
Nghiên cứu những vấn đề cơ bản về nhiệm vụ, nội dung công tác quốc
phòng, an ninh của Đảng hiện nay, bao gồm: xây dựng lực lƣợng dân quân tự
vệ, lực lƣợng dự bị động viên, tăng cƣờng tiềm lực cơ sở vật chất, kĩ thuật quốc
phòng, phòng chống chiến tranh công nghệ cao, đánh bại chiến lƣợc ”diễn biếnhòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch với cách mạng Việt Nam ;
một số vấn đề về dân tộc, tôn giáo và đấu tranh phòng chống địch lợi dụng vấn
đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam ; xây dựng, bảo vệ chủ
quyền lãnh thổ, chủ quyền biển đảo, an ninh quốc gia ; đấu tranh phòng chống
tội phạm và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội.
Nhà nƣớc quy định nhiệm vụ về quốc phòng, quân sự, an ninh cho các bộ,
ngành, cơ quan Trung ƣơng, địa phƣơng và đơn vị cơ sở. Do vậy, nghiên cứu về
công tác quốc phòng, an ninh thực chất là nghiên cứu hệ thống văn bản quy
phạm pháp luật của Nhà nƣớc về bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội
và an ninh chính trị. Mọi công dân, trong đó có đội ngũ trí thức trẻ đều có trách
nhiệm tham gia công tác quốc phòng, luyện tập quân sự, giữ gìn bảo vệ an ninh,
trật tự an toàn xã hội. Tăng cƣờng tiềm lực quốc phòng toàn dân, an ninh nhân
dân phòng, chống có hiệu quả chiến lƣợc ”diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ
của các thế lực thù địch với cách mạng Việt Nam, kể cả việc phòng, chống chiến
tranh công nghệ cao trong tƣơng lai. Nghiên cứu và thực hiện tốt công tác quốc
phòng, an ninh để xây dựng lòng tin chiến thắng trƣớc mọi âm mƣu, thủ đoạn
của kẻ thù đối với cách mạng Việt Nam.
3. Nghiên cứu về quân sự và kĩ năng quân sự cần thiết
Nghiên cứu các kiến thức, kĩ năng chiến thuật, kĩ thuật quân sự cần thiết
nhƣ : những kiến thức cơ bản về bản đồ, địa hình quân sự, các phƣơng tiện chỉ
huy chiến thuật và chiến đấu ; tính năng, tác dụng, cấu tạo, sử dụng, bảo quản
các loại vũ khí bộ binh AK, CKC, RPD, RPK, B40, B41 ; tính năng, kĩ thuật sử
dụng thuốc nổ ; phòng chống vũ khí hạt nhân, hóa học, sinh học, vũ khí lửa ; vết
thƣơng chiến tranh và phƣơng pháp xử lí ; một số vấn đề về điều lệnh đội ngũ và
chiến thuật chiến đấu bộ binh.
Kiến thức về quân sự trong môn học là những kiến thức phổ thông, sinh
viên cần quan tâm nghiên cứu đặc điểm, nguyên lí, tác dụng … hiểu rõ bản chất
các nội dung kĩ thuật, chiến thuật bộ binh ; về khả năng sát thƣơng, với các
phƣơng pháp phòng tránh đơn giản, hiệu quả. Trên cơ sở đó nghiên cứu thực
hành các bài tập sát với thực tế, thành thạo các thao tác kĩ thuật, chiến thuật
trong chiến đấu. Đồng thời có thể ứng dụng các kĩ thuật này khi tham gia dân
quân, tự vệ theo quy định của Pháp luật.III – PHƢƠNG PHÁP LUẬN VÀ CÁC PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU
Việc nghiên cứu môn học GDQP-AN đòi hỏi phải nắm vững cơ sở
phƣơng pháp luận, các phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể phù hợp với đối tƣợng,
phạm vi và tính chất đa dạng của nội dung môn học này.
1- Cơ sở phƣơng pháp luận
Cơ sở phƣơng pháp luận chung nhất của việc nghiên cứu GDQP-AN là
học thuyết Mác – Lê nin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh. Trong đó những quan điểm
của các nhà kinh điển Mác – Lê nin và của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chiến tranh,
quân đội, về xây dựng lực lƣợng vũ trang nhân dân, về xây dựng nền quốc
phòng toàn dân… là nền tảng thế giới quan, nhận thức luận của sự nghiên cứu,dung GDQP-AN nên quan tâm sài những phƣơng pháp thành lập trường hợp, nêu yếu tố, hội thoại, bàn thảo phát minh sáng tạo ; cải thiện cƣờng thực hành thực tế, tập sự gần cạnh sở hữu trong thực tiễn đương đầu, công tác làm việc quốc phòng ; cải thiện cƣờng du lịch thăm quan trong thực tiễn, viết lách thu hoạch, tiểu luận ; cải thiện cƣờng sài những phƣơng tiện kĩ thuật, dòng thiết bị quân sự chiến lược văn minh Giao hàng những content học hành ; tăng cường nghiên cứu và điều tra, phần mềm những tòa tháp CNTT nhằm mục đích nâng cao hóa học lƣợng học hành, điều tra và nghiên cứu môn học GDQP-AN .
IV- GIỚI THIỆU VỀ MÔN HỌC GIÁO DỤC QUỐC PHÕNG – AN
NINH
1. Đặc điểm môn học
Là môn học đƣợc Luật định, thể hiện rõ đƣờng lối giáo dục của Đảng
đƣợc thể chế hoá bằng các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nƣớc, nhằm
giúp sinh viên thực hiện mục tiêu ”hình thành và bồi dƣỡng nhân cách, phẩm
chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc”.(1)
Kế tục và phát huy những kết quả thực hiện Chƣơng trình Huấn luyện
quân sự phổ thông (1961), Giáo dục quốc phòng (1991), trong những năm qua,
để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới và phù hợp
với quy chế giáo dục – đào tạo trình độ đại học, năm 2000 chƣơng trình tiếp tục
đƣợc sửa đổi, bổ sung ; đến năm 2007 triển khai thực hiện Nghị định của Chính
phủ về GDQP-AN, môn học Giáo dục quốc phòng đƣợc lồng ghép nội dung an
ninh thành môn học GDQP-AN. Nhƣ vậy, trong từng giai đoạn cách mạng,
chƣơng trình môn học GDQP-AN đều có những đổi mới phục vụ cho sự nghiệp
phát triển đất nƣớc và công tác quốc phòng, an ninh trong từng thời kì, gắn kết
chặt chẽ các mục tiêu của giáo dục – đào tạo với quốc phòng – an ninh.
Giáo dục quốc phòng – an ninh là môn học bao gồm kiến thức khoa học
xã hội, nhân văn, khoa học tự nhiên và khoa học kĩ thuật quân sự và thuộc nhóm
các môn học chung, có tỉ lệ lí thuyết chiếm trên 70% chƣơng trình môn học. Nội
dung bao gồm kiến thức cơ bản về đƣờng lối quốc phòng, quân sự của Đảng,
công tác quản lí Nhà nƣớc về quốc phòng, an ninh ; về truyền thống đấu tranh
chống ngoại xâm của dân tộc, về nghệ thuật quân sự Việt Nam ; về chiến lƣợc
“diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch đối với cách mạng
Việt Nam và kĩ năng quân sự, an ninh cần thiết đáp ứng yêu cầu xây dựng, củng
cố nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân.
Giáo dục quốc phòng – an ninh góp phần xây dựng, rèn luyện ý thức tổ
chức kỉ luật, tác phong khoa học ngay khi sinh viên đang học tập trong nhà
trƣờng và khi ra công tác. Giảng dạy và học tập có chất lƣợng môn học GDQP-
AN là góp phần đào tạo cho đất nƣớc một đội ngũ cán bộ khoa học kĩ thuật, cán
bộ quản lí, chuyên môn nghiệp vụ có ý thức, năng lực sẵn sàng tham gia thực
hiện nhiệm vụ chiến lƣợc bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trên mọi
cƣơng vị công tác.( một ) Luật Giáo dục, 2005 .
2. Chƣơng trình
Môn học GDQP-AN trình độ đại học, cao đẳng ban hành theo Quyết định
số: 81/2007/QĐ-BGDĐT ngày 24 tháng 12 năm 2007 của Bộ trƣởng Bộ Giáo
dục và Đào tạo. Chƣơng trình đƣợc xây dựng trên cơ sở phát triển trình độ các
cấp học dƣới, bảo đảm liên thông, logic ; mỗi học phần là những khối kiến thức
tƣơng đối độc lập, tiện cho sinh viên tích luỹ trong quá trình học tập. Kết cấu
chƣơng trình gồm ba phần chính:
Phần 1: Mục tiêu, thời gian, thời điểm thực hiện.
Phần 2: Tóm tắt nội dung các học phần và chƣơng trình.
Học phần I: Đƣờng lối quân sự của Đảng, 45 tiết.
Học phần II: Công tác quốc phòng, an ninh, 45 tiết.
Học phần III: Quân sự chung, 45 tiết.
Học phần IV: Chiến thuật và kĩ thuật bắn súng tiểu liên AK, 30 tiết.
Sinh viên đại học học 4 học phần, 165 tiết ; sinh viên cao đẳng học 3 học
phần (I,II,III), 135 tiết.
Phần 3: Tổ chức thực hiện chƣơng trình ; phƣơng pháp dạy, học và đánh
giá kết quả học tập.
3. Đội ngũ giảng viên và cơ sở vật chất thiết bị dạy học
Đội ngũ giảng viên GDQP-AN các trƣờng đại học, cao đẳng, các Trung
tâm Giáo dục quốc phòng sinh viên đƣợc tổ chức trên cơ sở Nghị định của
Chính phủ về GDQP-AN và Nghị định của Chính phủ về biệt phái sĩ quan Quân
đội nhân dân Việt Nam. Giảng viên sĩ quan từ các Quân khu, các học viện, nhà
trƣờng Quân đội đƣợc đƣợc luân phiên làm công tác quản lý và giảng dạy. Các
trƣờng chƣa có giảng viên sĩ quan biệt phái đƣợc biên chế giảng viên cơ hữu
hoặc hợp đồng, thỉnh giảng giảng viên các học viện, nhà trƣờng Quân đội. Hệ
thống Trung tâm Giáo dục quốc phòng sinh viên do Chính phủ quy định, đƣợc
phát triển trên phạm vi cả nƣớc đang thu hút phần lớn sinh viên vào học tập rèn
luyện trong môi trƣờng văn hóa – quân sự.
Để đáp ứng nhu cầu học tập, rèn luyện của sinh viên Nhà nƣớc đã và đang
đầu tƣ xây dựng cơ sở vật chất cho các trung tâm giáo dục quốc phòng. Tổ chức
dạy, học môn học GDQP-AN phải bảo đảm đủ cơ sở vật chất, thiết bị dạy học
đƣợc quy định trong danh mục và tiêu chuẩn bộ mẫu thiết bị dạy học tối thiểu do
Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành. Khi học thực hành các kĩ năng quân sự phải
có sân tập, bãi tập, thao trƣờng. Giáo trình Giáo dục quốc phòng – an ninh dùng
cho các trƣờng đại học, cao đẳng do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành là tài liệu
giảng dạy và nghiên cứu chính thức của giảng viên, sinh viên. Ngoài ra, sinh
viên tìm đọc thêm tại liệu tham khảo đã đƣợc giới thiệu trong giáo trình để nâng
cao kiến thức và sự hiểu biết về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
4. Tổ chức dạy học và đánh giá kết quả học tập
Tổ chức dạy học và đánh giá kết quả học tập môn học GDQP-AN đƣợc
quy định trong Quyết định số 69/2007/QĐ-BGDĐT ngày 14 tháng 11 năm 2007
của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Hình thức tổ chức dạy học tập trung chủ yếu thực
hiện ở các Trung tâm Giáo dục quốc phòng sinh viên ; ở các trƣờng có thể đan
xen nhiều hình thức khác theo quy định của hiệu trƣởng. Khi học GDQP-AN
sinh viên phải mang mặc gọn gàng, thống nhất theo hƣớng dẫn của giảng viên.Bài 2
QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ
MINH VỀ CHIẾN TRANH QUÂN ĐỘI VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐCI – MỤC ĐÍCH YÊU CẦU
– Trang bị cho sinh viên một số quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác –
Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về chiến tranh, quân đội và bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa.
– Trên cơ sở đó bồi dƣỡng thế giới quan, phƣơng pháp luận khoa học cách
mạng cho ngƣời học, giúp ngƣời học có cơ sở khoa học để quán triệt quan điểm
cơ bản của Đảng ta về chiến tranh, xây dựng quân đội đáp ứng yêu cầu, nhiệm
vụ bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
**II – NỘI DUNG
- Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
chiến tranh**
a) Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về chiến tranh
– Chiến tranh là một hiện tượng chính trị – xã hội
Chiến tranh là một trong những vấn đề phức tạp, trƣớc Mác đã có nhiều nhà
tƣ tƣởng đề cập đến vấn đề này, song đáng chú ý nhất là tƣ tƣởng của
C.Phơvít (1780 – 1831), Ông quan niệm : Chiến tranh là một hành vi bạo
lực dùng để buộc đối phƣơng phục tùng ý chí của mình. Chiến tranh là sự huy
động sức mạnh không hạn độ, sức mạnh đến tột cùng của các bên tham chiến. Ở
đây, C.Phơvít đã chỉ ra đƣợc đặc trƣng cơ bản của chiến tranh đó là sử
dụng bạo lực. Tuy nhiên, C.Phơvít chƣa luận giải đƣợc bản chất của hành
vi bạo lực ấy. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã kế thừa tƣ tƣởng đó và đi
đến khẳng định : Chiến tranh là hiện tƣợng chính trị xã hội có tính lịch sử, đó là
cuộc đấu tranh vũ trang có tổ chức giữa các giai cấp, nhà nƣớc (hoặc liên minh
giữa các nƣớc) nhằm đạt mục đích chính trị nhất định. Nhƣ vậy, theo quan điểm
của chủ nghĩa Mác – Lênin, chiến tranh là kết quả của những quan hệ giữa ngƣời
với ngƣời trong xã hội. Nhƣng nó không phải là những mối quan hệ giữa ngƣời
với ngƣời nói chung, mà là mối quan hệ giữa những tập đoàn ngƣời có lợi ích cơ
bản đối lập nhau. Khác với các hiện tƣợng chính trị – xã hội khác, chiến tranh
đƣợc thể hiện dƣới một hình thức đặc biệt, sử dụng một công cụ đặc biệt đó là
bạo lực vũ trang.
- Nguồn gốc nảy sinh chiến tranh
Với thế giới quan và phƣơng pháp luận duy vật biện chứng, cùng với sự kết
hợp sáng tạo phƣơng pháp lôgíc và lịch sử, Các và Ph.Ăngghen lần đầu tiên
trong lịch sử đã luận giải một cách đúng đắn về nguồn gốc nảy sinh chiến tranh.
Chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định: sự xuất hiện và tồn tại của chế độ chiếm
hữu tƣ nhân về tƣ liệu sản xuất là nguồn gốc sâu xa (Nguồn gốc kinh tế), suy
đến cùng đã dẫn đến sự xuất hiện, tồn tại của chiến tranh. Đồng thời, sự xuất
hiện và tồn tại của giai cấp và đối kháng giai cấp là nguồn gốc trực tiếp (Nguồn
gốc xã hội) trực tiếp dẫn đến sự xuất hiện, tồn tại của chiến tranh.
Thực tiễn hình thành và phát triển xã hội loài ngƣời đã chứng minh cho nhận
định trên. Trong tác phẩm: “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tƣ hữu và củangôi nhà nƣớc “, Ph. Ăngghen chỉ rõ ràng : Trải đi qua dãy vạn năm vào chính sách cộng sản nguyên thủy, lúc chƣa với chính sách tƣ hữu, chƣa với ách thống trị đối chọi thì cuộc chiến tranh mang tính tình được xem là 1 hiện nay tƣợng chính trị cộng đồng cũng chƣa Open .. mặc dù sống thời gian nà sẽ Open các cuộc xung đột thiết bị. Nhƣng ấy ko nên được xem là 1 cuộc cuộc chiến tranh mà lại chỉ được xem là 1 dạng ” Lao động thời cổ “. Bởi vì, xem xét về bên cộng đồng, cộng đồng cộng sản nguyên thủy được xem là 1 cộng đồng ko sở hữu ách thống trị, đồng đẳng, ko sở hữu thực trạng phân loại thành kẻ nhiều, ngƣời nghèo, kẻ đi áp bức bóc lột & ngƣời bị áp bức bóc lột. Về kinh tế tài chính, ko với của ” dƣ quá tƣơng đối ” nhằm ngƣời nào là hoàn toàn có thể cướp đoạt công sức của ngƣời Đặc trưng, tiềm năng những cuộc xung đột đấy chỉ nhằm giành giật những điều kiện kèm theo tự nhiên và thoải mái thuận tiện nhằm sống sót nhƣ : Power nƣớc, bãi cỏ, chốn đi săn tốt hang động, … Về bên kỹ năng quân sự chiến lược, vào những cuộc xung đột nào là, toàn bộ những phía nhập cuộc hầu như ko với lực lƣợng thiết bị chuyên nghiệp và bài bản, cũng nhƣ trang bị chuyên sử dụng. Tất cả những member của bộ lạc mang mỗi lý lẽ công lao thƣờng vào ngày đầy đủ nhập cuộc trong cuộc xung đột đấy. Do đó, những cuộc xung đột trang bị nào trọn vẹn với tính tự nhiên bột phát. Theo ấy, Ph. Ăngghen chỉ rõ ràng, lúc chính sách sở hữu tƣ nhân về tƣ liệu chế tạo Open & cộng sở hữu chúng được xem là sự sinh ra của thống trị, những tầng lớp áp bức bóc lột thì cuộc chiến tranh sinh ra & sống sót nhƣ 1 tất nhiên khả quan. Chế độ áp bức bóc lột càng triển khai xong thì cuộc chiến tranh càng tăng trưởng. Chiến tranh biến thành ” quý khách đƣờng ” của mỗi chính sách tƣ hữu. Phát triển các vấn đề của Các, Ph. Ăngghen về cuộc chiến tranh vào điều kiện kèm theo lịch sử dân tộc thế hệ, V. Lênin chỉ rõ ràng vào thời buổi thời nay vẫn còn chủ nghĩa đế quốc vẫn còn rủi ro tiềm ẩn xảy ra cuộc chiến tranh, cuộc chiến tranh được xem là khách tham quan đƣờng của chủ nghĩa đế quốc. Nhƣ vậy, cuộc chiến tranh sở hữu nguồn gốc xuất xứ tự chính sách sở hữu tƣ nhân về tƣ liệu chế tạo, với solo thống trị & áp bức bóc lột, cuộc chiến tranh ko buộc phải được xem là 1 số trời gắn thêm ngay lập tức sở hữu nhỏ ngƣời & cộng đồng loại ngƣời. Muốn đánh bay quăng quật cuộc chiến tranh cần đánh bay vứt nguồn gốc xuất xứ sanh ra chúng – Bản chất cuộc chiến tranh Bản chất cuộc chiến tranh được xem là 1 vào các content căn bản, chẳng thể số 1 của thuyết giáo Mác – Lênin về cuộc chiến tranh, quân đội. Theo V. Lênin : ” Chiến tranh được xem là sự liên tục của chính trị bởi các giải pháp dị biệt ” ( đơn cử được xem là bởi đấm đá bạo lực ) 1. Theo V. Lênin, lúc nghiên cứu và phân tích thực chất cuộc chiến tranh, nhất quyết cần với cách nhìn chính trị – ách thống trị, coi cuộc chiến tranh chỉ được xem là 1 hiện nay tƣợng lịch sử dân tộc đơn cử. Theo cách nhìn chủ nghĩa Mác – Lênin : ” Chính trị được xem là sự phản ảnh tập trung chuyên sâu của kinh tế tài chính ” 2, ” Chính trị được xem là mọt mối quan hệ thân những ách thống trị, những dân tộc bản địa ” tam, chính trị được xem là sự nhất thống quan điểm thân đƣờng đường đối nội & đƣờng đường đối ngoại, vào ấy đƣờng đường đối ngoại phụ thuộc vào trong đƣờng đường đối nội. Nhƣ vậy, cuộc chiến tranh chỉ được xem là 1 thời mẩu, 1 phòng ban của chính trị, chúng ko có tác dụng xa cách chính trị. Ngƣợc lại, mỗi tính năng, trách nhiệm của chính trị phần nhiều đƣợc liên tục thực thi vào cuộc chiến tranh. Giữa cuộc chiến tranh & chính trị sở hữu mối quan hệ ngặt nghèo sở hữu nhau vào ấymột V. Lênin, Toàn tập, tập 26, Bản h Việt, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr. 397 2 V. Lênin, Toàn tập, tập 42, Bản giờ đồng hồ Việt, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1976, tr. 349 tam V. Lênin, Toàn tập, tập 49, Bản giờ đồng hồ Việt, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, tr. 500- Xác định tích chất cộng đồng của cuộc chiến tranh, nghiên cứu và phân tích đặc thù chính trị – cộng đồng của cuộc chiến tranh xâm chiếm thực dân địa, cuộc chiến tranh trộm cướp của chủ nghĩa đế quốc, chỉ ra đặc thù chính đạo của chiến tranh giải phóng dân tộc bản địa Trên đại lý mục tiêu chính trị của cuộc chiến tranh, Sài Gòn sẽ xác lập đặc thù cộng đồng của cuộc chiến tranh, cuộc chiến tranh xâm lƣợc được xem là dã man, cuộc chiến tranh ngăn xâm lƣợc được xem là chính đạo, tự ấy xác lập thể hiện thái độ của tất cả chúng ta được xem là cỗ vũ cuộc chiến tranh chính đạo, phản đối cuộc chiến tranh gian tà. Kế thừa & tăng trưởng tƣ tƣởng của chủ nghĩa Mác – Lênin về đấm đá bạo lực cách mệnh, TP HCM sẽ áp dụng phát minh sáng tạo trong thực tế cuộc chiến tranh cách mệnh Nước Ta. Ngƣời khẳng định chắc chắn : ” Chế độ thực dân, tự động bản thân mình chúng sẽ được xem là 1 hành vi đấm đá bạo lực, chủ quyền hòa bình không hề van xin cơ mà sở hữu đƣợc, cần sài đấm đá bạo lực cách mệnh ngăn lại đấm đá bạo lực phản cách mạng, đoạt đem chính quyền sở tại & đảm bảo chính quyền sở tại ” 5. Bạo lực cách mệnh đi theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh đƣợc phát hành bởi vì sức khỏe của toàn dân, bởi cả lực lƣợng chính trị & lực lƣợng vũ trang, phối hợp ngặt nghèo thân tranh đấu chính trị & chống chọi vũ khí. – HCM Khẳng định : Ngày nay chiến tranh giải phóng dân tộc bản địa của con người ta được xem là cuộc chiến tranh loài người bên dưới sự chỉ huy của Đảng. Cách mạng được xem là công danh của nhân loại. Hồ Chí Minh luôn luôn xem nhỏ ngƣời được xem là tác nhân quyết định hành động thành công vào cuộc chiến tranh. Ngƣời công ty trƣơng bắt buộc dựa trong dân, xem dân được xem là cội, được xem là nguồn cội của sức khỏe nhằm ” thiết kế xây dựng lầu chiến thắng “. Tƣ tƣởng TP HCM về cuộc chiến tranh người được xem là 1 vào các di tích trân quý của Ngƣời. Tƣ tƣởng nào đƣợc TP HCM trình diễn 1 cách giản dị và đơn giản, dễ dàng phát âm nhƣng nhộn nhịp & siêu thâm thúy. Chiến tranh trái đất dƣới sự chỉ huy của Đảng được xem là cuộc cuộc chiến tranh toàn dân, cần khích lệ toàn dân, tranh bị toàn dân & đặt dƣới sự chỉ huy của Đảng cộng sản. Tƣ tƣởng của Ngƣời đƣợc biểu lộ rõ rệt đường nét vào lời lôi kéo toàn nước tao loạn ngăn thực dân Pháp Trong ngày 19 – 12 – 1946 : ” Bất kì nam giới, bạn nữ, bất kể ngƣời già, ngƣời trẻ con, ko phân tách tôn giáo, đảng phái, dân tộc bản địa … cồn được xem là ngƣời Nước Ta thì nên đứng lên tiến công thực dân Pháp nhằm cứu vãn Tổ quốc. Ai sở hữu súng sài sứng, ai mang gƣơm sài gƣơm, ko với gƣơm thì sài cuốc thuổng, gậy gộc. Ai cũng bắt buộc ra công phòng thực dân Pháp cứu vãn nƣớc ” 6. Để đánh thắng giặc Mĩ xâm lƣợc, Ngƣời liên tục khẳng định chắc chắn : ” Ba muơi kiểu mốt triệu đồng bào ta sống cả nhì miền, bất kể già con trẻ, gái trai, cần được xem là bố mƣơi kiểu mẫu triệu chiến sỹ quả cảm khử Mĩ cứu vớt nƣớc, quyết chiếm thành công ở đầu cuối ” 7. Theo tƣ tƣởng HCM, tấn công giặc cần bởi sức khỏe của toàn dân, vào đấy buộc phải với lực lƣợng vũ tranh thế giới có tác dụng chủ lực. Kháng chiến toàn dân nên song song mang binh lửa tổng lực, đẩy mạnh sức khỏe tổ hợp của toàn dân, tấn công địch bên trên tổng thể những chiến trường : quân sự chiến lược ; chính trị ; kinh tế tài chính ; văn hóa truyền thống … Sự ấn tượng bên trên sẽ phản ảnh đường nét rực rỡ của cuộc chiến tranh toàn cầu Nước Ta vào thời buổi thế hệ & được xem là 1 sự tăng trưởng tới đỉnh điểm tƣ tƣởng tranh bị5 TP HCM, Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị vương quốc, TP. Hà Nội, 1995, tr. 304. 6 HCM, Toàn tập, tập bốn, Nxb Chính trị vương quốc, Thành Phố Hà Nội, 1995, tr. 480. 7 Sài Gòn, Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị vương quốc, TP. Hà Nội, 1996, tr. 323 .
toàn dân của chủ nghĩa Mác – Lênin. Sự phát triển sâu sắc làm phong phú thêm
lí luân mác xít về chiến tranh nhân dân trong điều kiện cụ thể ở Việt Nam.
2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
quân đội
a) Quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin về quân đội
Theo Ph.Ăngghen: “Quân đội là một tập đoàn ngƣời vũ trang, có tổ chức do
nhà nƣớc xây dựng để dùng vào cuộc chiến tranh tiến công hoặc chiến tranh
phòng ngự” 8.
Nhƣ vậy theo Ph.Ăngghen, quân đội là một tổ chức của một giai cấp và nhà
nƣớc nhất định, là công cụ bạo lực vũ trang chủ yếu nhất, là lực lƣợng nòng cốt
để nhà nƣớc, giai cấp tiến hành chiến tranh và đấu tranh vũ trang.
Trong điều kiện chủ nghĩa tƣ bản phát triển từ tự do cạnh tranh sang độc
quyền (Chủ nghĩa đế quốc), V. Lênin nhấn mạnh: chức năng cơ bản của quân
đội đế quốc là phƣơng tiện quân sự chủ yếu để đạt mục đích chính trị đối ngoại
là tiến hành chiến tranh xâm lƣợc và duy trì quyền thống trị của bọn bọc lột đối
với nhân dân lao động trong nƣớc.
Nguồn gốc ra đời của quân đội
Từ khi quân đội xuất hiện đến nay, đã có không ít nhà lí luận đề cập đến
nguồn gốc, bản chất của quân đội trên các khía cạnh khác nhau. Nhƣng chỉ có
chủ nghĩa Mác – Lênin mới lí giải đúng đắn và khoa học về hiện tƣợng chính trị
xã hội đặc thù này.
Chủ nghĩa Mác – Lênin đã chứng minh một cách khoa học về nguồn gốc ra
đời của quân đội từ sự phân tích cơ sở kinh tế – xã hội và khẳng định : quân đội
là một hiện tƣợng lịch sử, ra đời trong giai đoạn phát triển nhất định của xã hội
loài ngƣời, khi xuất hiện chế độ tƣ hữu về tƣ liệu sản xuất và sự đối kháng giai
cấp trong xã hội. Chính chế độ tƣ hữu và đối kháng giai cấp đã làm nẩy sinh nhà
nƣớc thống trị bóc lột. Để bảo vệ lơị ích của giai cấp thống trị và đàn áp quần
chúng nhân dân lao động giai cấp thống trị đã tổ chức ra lực lƣợng vũ trang
thƣờng trực làm công cụ bạo lực của nhà nƣớc.
Nhƣ vậy, chế độ tƣ hữu về tƣ liệu sản xuất và sự phân chia xã hội thành giai
cấp đối kháng là nguồn gốc ra đời của quân đội. Chừng nào còn chế độ tƣ hữu,
còn chế độ áp bức bóc lột thì quân đội vẫn còn tồn tại. Quân đội chỉ mất đi khi
giai cấp, nhà nƣớc và những điều kiện sinh ra nó tiêu vong.
– Bản chất giai cấp của quân đội
Khi bàn về bản chất của quân đội, chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định bản
chất quân đội là công cụ bạo lực vũ trang của một giai cấp, nhà nƣớc nhất định
nhằm mục đích bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị và nhà nƣớc tổ chức, nuôi
dƣỡng, sử dụng nó. Bản chất giai cấp của quân đội phụ thuộc vào bản chất giai
cấp của nhà nƣớc đã tổ chức ra quân đội đó. Quân đội do giai cấp, nhà nƣớc tổ
chức, nuôi dƣỡng và xây dựng theo đƣờng lối, quan điểm chính trị, quân sự của
giai cấp mình. Đó là cơ sở để quân đội trung thành với nhà nƣớc, giai cấp đã tổ
chức ra nó.tám Ph. Ăngghen, Tuyển tập Luận văn quân sự chiến lược, tập 2, Nxb Quõn team nhõn dõn, TP.HN, 1978, tr .
V. Lênin kế thừa, bảo vệ và phát triển lí luận của Các, Ph.Ăngghen về
quân đội và vận dụng thành công trong xây dựng quân đôị kiểu mới của giai cấp
vô sản.
Ngay sau khi Cách mạng Tháng Mƣời Nga thành công, các thế lực thù địch
điên cuồng chống phá nƣớc Nga Xô viết. Để bảo vệ thành quả cách mạng, V.
Lênin yêu cầu phải giải tán quân đội cũ và thành lập quân đội kiểu mới (Hồng
quân) của giai cấp vô sản. V. Lênin đã chỉ ra những nguyên tắc cơ bản trong
xây dựng quân đội kiểu mới: Đảng cộng sản lãnh đạo Hồng quân tăng cƣờng
bản chất giai cấp công nhân; đoàn kết thống nhất quân đội với nhân dân ; trung
thành với chủ nghĩa quốc tế vô sản; xây dựng chính quy; không ngừng hoàn
thiện cơ cấu tổ chức ; phát triển hài hoà các quân chủng, binh chủng ; sẵn sàng
chiến đấu. Trong đó sự lãnh đạo của Đảng cộng sản là nguyên tắc quan trọng
nhất, quyết định đến sức mạnh, sự tồn tại, phát triển, chiến đấu, chiến thắng của
Hồng quân.
Ngày nay, những nguyên tắc cơ bản về xây dựng quân đội kiểu mới của V.
Lênin vẫn giữ nguyên giá trị. Là cơ sở lí luận khoa học cho các Đảng Cộng sản
xác định phƣơng hƣớng tổ chức xây dựng quân đội của mình.
b) Tư tưởng Hồ Chí Minh về quân đội
Khẳng định sự ra đời của quân đội là một tất yếu, là vấn đề có tính quy luật
trong đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc ở Việt Nam.
Hồ Chí Minh chỉ rõ mối quan hệ biện chứng giữa sự ra đời của quân đội với
sự nghiệp giải phóng giai cấp và giải phóng dân tộc. Ngƣời viết: “Dân tộc Việt
Nam nhất định phải đựoc giải phóng. Muốn đánh chúng phải có lực lƣợng quân
sự, phải có tổ chức” 10.
Ngày 22 – 12 – 1944, đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân – tiền thân
của quân đội ta hiện nay đƣợc thành lập. Sự ra đời của quân đội xuất phát từ
chính yêu cầu của sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp
ở nƣớc ta. Thực tiễn lịch sử cho thấy, kẻ thù sử dụng bạo lực phản cách mạng để
áp bức nô dịch dân tộc ta. Do vậy, muốn giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp
chúng ta phải tổ chức ra bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách
mạng.
Để thực hiện đƣợc mục tiêu cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng
Cộng sản Việt Nam đã tổ chức ra lực lƣợng vũ trang cách mạng làm nòng cốt
cho cuộc đấu tranh giai cấp, dân tộc mà tiền thân của nó là những đội xích vệ
đỏ, du kích vũ trang, sau đó phát triển thành quân đội nhân dân. Quân đội nhân
dân Việt Nam là lực lƣợng vũ trang cách mạng của giai cấp công nhân và quần
chúng lao động, đấu tranh với kẻ thù giai cấp và kẻ thù dân tộc.
Quá trình xây dựng chiến đấu và trƣởng thành của quân đội ta luôn luôn gắn
liền với phong trào cách mạng của quần chúng, với các cuộc chiến tranh giải
phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Chính từ thực tiễn phong
trào cách mạng của quần chúng, những thăng trầm của chiến tranh, những thử
thách ác liệt cùng với những hi sinh to lớn mà phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”10 TP HCM, Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị vương quốc, Thành Phố Hà Nội, 1995, tr. 71, 72 .đc luyện tập, kiểm tra khắt khe số 1 & đc tăng trưởng lên các đỉnh điểm. Ngay từ bỏ lúc thế hệ xây dựng mặc dầu phần đông cán bộ chiến sỹ xuất thân trường đoản cú dân cày nhƣng tổng thể chúng ta rất nhiều được xem là các ngƣời sở hữu đáy yêu thương nƣớc mạnh mẽ, trí căm phẫn giặc thâm thúy. Trải đi qua các năm tháng ship hàng vào quân đội chúng ta ko kết thúc đƣợc nâng cao giác ngộ cách mệnh, đưa tự giác ngộ dân tộc bản địa lên giác ngộ kẻ thống trị, tự niềm tin hòa bình dân tộc bản địa lên tinh thần xã hội chủ nghĩa, đưa lập trƣờng của cai trị xuất thân sang trọng lập trƣờng ách thống trị CN nhằm Để ý đến xử lý nhìn nhận việc làm. Sự nhất thống quan điểm cơ học bên trên, tự đường nét đặc trưng về chính sách chính trị, thực chất Nhà nƣớc, kẻ thống trị tổ chức triển khai, nuôi dƣỡng & dùng quân đội. Quân đội dân chúng Việt Nam sinh ra từ bỏ những trào lưu cách mệnh của toàn cầu, đƣợc dân chúng nuôi dƣỡng, chở che, phủ trở & tiếp sức, lại đƣợc tổ chức triển khai giáo dục luyện tập do Đảng Cộng sản Việt Nam – Ngƣời đại biểu trung thành với chủ mang đến quyền lợi kẻ thống trị, dân tộc bản địa & địa cầu, thế cho nên quân đội luôn luôn hoàn thành xong mỗi trách nhiệm cơ mà Đảng & địa cầu phó thác. – Quân đội nhân loại Nước Ta với thực chất của ách thống trị CN Với cƣơng mùi vị được xem là ngƣời tổ chức triển khai, chỉ huy, giáo dục & luyện tập quân đội ta, quản trị HCM thƣờng xoi quan tâm thực chất ách thống trị CN mang lại quân đội. Bản chất ách thống trị CN mối liên hệ khăng khít mang tính nhân dân vào thực thi cuộc chiến tranh mọi người phòng thực dân, đế quốc xâm lƣợc. Trong thiết kế xây dựng thực chất thống trị CN mang đến quân đội, HCM rất là chăm sóc tới giáo dục, nuôi dƣỡng những phẩm chất cách mệnh, hào kiệt chính trị & xem đấy được xem là cơ sơ, căn nguyên nhằm thiết kế xây dựng quân đội lớn mạnh tổng lực. Trong buổi lễ phong quân hàm mang lại những cán bộ hạng sang Quân đội thế giới Nước Ta đến ngày 22 – 12 – 1958, Ngƣời vừa biểu dƣơng, vừa dặn dò : ” Quân đội sẽ hoàn thành xong trách nhiệm nhưng Đảng & nhà nước bàn giao mang đến, sẽ mang truyền thống lịch sử vinh quang được xem là hoàn hảo và tuyệt vời nhất trung thành với chủ mang Đảng, sở hữu dân chúng, đương đầu dũng mãnh, công tác làm việc & công phu tích cực và lành mạnh, tiết kiệm chi phí, siêng năng, nhã nhặn, giản dị và đơn giản, kết hợp nội bộ, đồng cam cùng khổ có nhân loại, sẵn sàng chuẩn bị giải quyết và khắc phục khó khăn vất vả triển khai xong trách nhiệm ” 11. Lời dặn dò của Ngƣời được xem là sự đại quát những phẩm chất, tiêu chuẩn của thực chất ách thống trị CN của quân đội ta. Trong bài bác trò chuyện trên buổi thết đãi mừng quân đội ta tròn nhì mƣơi tuổi đến ngày 22 – 12 – 1964, 1 đợt tiếp theo HCM lại chứng minh và khẳng định, thực chất ách thống trị của quân đội được xem là nguyên tắc đấm đá bạo lực thiết bị của ách thống trị, căn nhà nƣớc. Ngƣời viết lách : ” Quân đội ta trung sở hữu Đảng, hiếu có dân, sẵn sàng chuẩn bị đấu tranh mất mát vì thế chủ quyền hòa bình của Tổ quốc, vì như thế chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ làm sao cũng hoàn thành xong, khó khăn vất vả như thế nào cũng vƣợt đi qua, quân địch như thế nào cũng đánh thắng ” 12. Quân đội loài người Nước Ta đƣợc Đảng & quản trị Sài Gòn liên đới tổ chức triển khai chỉ huy, giáo dục & luyện tập, đƣợc thế giới không còn đáy yêu thương thƣơng, yêu thương, cùng theo đó đƣợc thừa kế các truyền thống cuội nguồn may mắn tốt lành của 1 dân tộc bản địa sở hữu dãy nghìn năm văn hiến & lịch sử dân tộc đương đầu dựng nƣớc lắp ngay lập tức sở hữu giữ lại nƣớc oanh liệt. Do đó, gần từ bỏ lúc sinh ra & vào xuyên suốt quy trình tăng trưởng, quân đội ta11 TP HCM, Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị vương quốc, Thành Phố Hà Nội, 1996, tr. 247. 12 HCM, Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị vương quốc, TP.HN, 1995, tr. 349 – 350 .
Nhiệm vụ của quân đội ta hiện nay là phải luôn luôn sẵn sàng chiến đấu và
chiến đấu thắng lợi bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Trƣớc tình hình nhiệm vụ
mới của cách mạng và của quân đội, ngoài nhiệm vụ chiến đấu và sẵn sàng
chiến đấu, quân đội phải tham gia vào nhiệm vụ xây dựng đất nƣớc, sản xuất ra
của cải vật chất và tiến hành công tác huấn luyện. Đây là vấn đề khác về chất so
với quân đội của giai cấp bóc lột. Quân đội ta có ba chức năng: Là đội quân
chiến đấu, là đội quân công tác, là đội quân sản xuất. Ba chức năng đó phản ánh
cả mặt đối nội, đối ngoại của quân đội.
Với tƣ cách là đội quân chiến đấu, quân đội luôn sẵn sàng chiến đấu và chiến
đấu chống xâm lƣợc, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, góp phần bảo vệ trật tự
an toàn xã hội, tham gia vào cuộc tiến công địch trên mặt trận lí luận, chính trị –
tƣ tƣởng, văn hoá; là đội quân sản xuất, quân đội tăng gia sản xuất cải thiện đời
sống cho bộ đội, xây dựng kinh tế, góp phần xây dựng, phát triển đất nƣớc,
trong điêù kiện hiện nay, quân đội còn là lực lƣợng nòng cốt và xung kích trong
xây dựng kinh tế – quốc phòng ở các địa bàn chiến lƣợc, nhất là ở biên giới, biển
đảo, vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn gian khổ và ở những địa bàn có
những tình huống phức tạp nảy sinh ; là đội quân công tác, quân đội tham gia
vận động quần chúng nhân dân xây dựng cơ sở chính trị – xã hội vững mạnh,
góp phần tăng cƣờng sự đoàn kết giữa Đảng với nhân dân, quân đội với nhân
dân; giúp dân chống thiên tai, giải quyết khó khăn trong sản xuất và đời sống,
tuyên truyền vận động nhân dân hiểu rõ và chấp hành đúng đƣờng lối, quan
điểm, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nƣớc.
Thực tiễn hơn 60 năm xây dựng, chiến đấu, trƣởng thành của quân đội ta đã
chứng minh: quân đội đã thực hiện đầy đủ và thực hiện xuất sắc ba chức năng
trên cùng toàn Đảng, toàn dân lập nên những chiến công hiển hách trong chiến
tranh giải phóng. Sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay, quân đội có vai trò hết sức
nặng nề. Quân đội luôn phải là đội quân cách mạng, lực lƣợng chính trị, công cụ
vũ trang sắc bén của Đảng, có sức chiến đấu cao, sẵn sàng đánh bại mọi kẻ thù,
hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ…Để thực hiện vai trò đó, cần đổi mới nhận
thức về các chức năng của quân đội cho phù hợp với tình hình mới.
3. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa
Tổ quốc bao giờ cũng gắn với nhà nƣớc và giai cấp thống trị xã hội. Vấn đề
Tổ quốc của giai cấp nào và giai cấp nào không có tổ quốc. Theo nghĩa đó mà
Các và Ph.Ăngghen đã khẳng định : “Dƣới chủ nghĩa tƣ bản, giai cấp công
nhân không có Tổ quốc” 15. Trong điều kiện lịch sử cụ thể, thời Các,
Ph.Ăngghen sống, vấn đề bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa chƣa đƣợc đặt ra một
cách trực tiõp. Bài học kinh nghiệm của Công xã Pari có ý nghĩa rất quan trọng
đối với việc bảo vệ thành quả cách mạng, sau khi giai cấp vô sản giành chính
quyền, nhƣng mới chỉ là ý kiến ban đầu về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Học thuyết bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là một cống hiến mới của V.
Lênin vào kho tàng lí luận chủ nghĩa Mác, đáp ứng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa đang đặt ra trực tiếp ở nƣớc Nga Xô viết.15 Các & Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập bốn, Nxb Chính trị vương quốc, TP.HN, tr .
a) Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là một tất yếu khách quan
- Xuất phát từ yêu cầu bảo vệ thành quả cách mạng của giai cấp công nhân.
Trong điều kiện giai cấp tƣ sản nắm chính quyền, Các và Ph.Ăngghen chỉ ra
rằng, giai cấp công nhân phải đấu tranh trở thành giai cấp dân tộc, khi ấy chính
giai cấp công nhân là ngƣời đại diện cho Tổ quốc, họ có nhiệm vụ phải đẩy lùi
sự tấn công của bọn phản cách mạng. - Xuất phát từ quy luật xây dựng chủ nghĩa xã hội phải đi đôi với bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa. V. Lênin là ngƣời có công đóng góp to lớn trong việc
bảo vệ và phát triển học thuyết về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong giai
đoạn đế quốc chủ nghĩa, Ngƣời khẳng định: “Kể từ ngày 25 tháng Mƣời 1917,
chúng ta là những ngƣời chủ trƣơng bảo vệ Tổ quốc. Chúng ta tán thành “bảo vệ
Tổ quốc”, nhƣng cuộc chiến tranh giữ nƣớc mà chúng ta đang đi tới là một cuộc
chiến tranh bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chủ nghĩa xã hội với tƣ
cách là Tổ quốc” 16.
Ngay sau khi cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa thắng lợi, nhà nƣớc của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động đƣợc thiết lập thì Tổ quốc xã hội chủ nghĩa
cũng bắt đầu hình thành. Giai cấp công nhân bắt tay vào công cuộc cải tạo xã
hội cũ và xây dựng xã hội mới – xã hội, xã hội chủ nghĩa. Cùng với nhiệm vụ
xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa cũng
đƣợc đặt ra một cách trực tiếp, nó trở thành nhiệm vụ chiến lƣợc của các nƣớc
xã hội chủ nghĩa hai nhiệm vụ chiến lƣợc này gắn bó hữu cơ với nhau trong suốt
quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa. - Xuất phát từ quy luật phát triển không đều của chủ nghĩa đế quốc. Ngay từ
những năm cuối thế kỉ XIX, V. Lênin đã chỉ ra, do quy luật phát triển không
đều của chủ nghĩa đế quốc mà chủ nghĩa xã hội có thể giành thắng lợi không
đồng thời ở các nƣớc. Do đó, trong xuốt thời kì quá độ từ chủ nghĩa tƣ bản lên
chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi thế giới, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tƣ bản
là hai chế độ xã hội đối lập nhau cùng tồn tại và đấu tranh với nhau hết sức
quyết liệt. - Xuất phát từ bản chất, âm mƣu của kẻ thù và thực tiễn cách mạng thế giới.
Sự thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa, giai cấp tƣ sản trong nƣớc tuy đã
bị đ#nh đổ về mặt chính trị, nhƣng chúng vẫn chƣa từ bỏ tham vọng muốn quay
trở lại địa vị thống trị đã mất. Do vậy, chúng tìm mọi cách liên kết với các phần
tử phản động và chủ nghĩa tƣ bản bên ngoài hòng lật đổ chính quyền cách mạng
còn non trẻ của giai cấp công nhân. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh rằng, từ khi
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa xuất hiện, nhân dân các nƣớc xã hội chủ nghĩa phải
đƣơng đầu chống trả những âm mƣu và hành động lật đổ, xâm lƣợc của kẻ thù
bên trong và bên ngoài. Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mƣời Nga năm
1917, mƣời bốn nƣớc đế quốc tập trung bao vây hòng tiêu diệt nƣớc Nga Xô
viết. Từ khi chủ nghĩa xã hội phát triển thành hệ thống thế giới, sự chống phá
của kẻ thù càng quyết liệt hơn. Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và
Đông Âu là một tổn thất của phong trào cách mạng thế giới, song nó cũng để lại
cho các nƣớc xã hội chủ nghĩa những bài học đắt giá rằng : xây dựng chủ nghĩa
16 V. Lê nin, Toàn tập, tập 36, Bản giờ đồng hồ Việt, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 1977, tr. 102 .
Source: https://bacxiunong.com